Chương 56
Danh lam (2)
…
Nho sĩ đi nước mã lùi về thủ thế, ông thở dài sâu lắng, buông lời suy tư sâu tận cõi lòng:
“ Ta vẫn tin vào ý chí thiên đạo, nhưng không tin vào Vũ Môn.”
Văn Thánh không chủ ý thế tấn, ông đưa quân sĩ của mình về lại, rồi hỏi:
“ Vì sao?!”
Nho sĩ cười nhạt, nụ cười nhạt nhẽo. Ông đáp lại:
“ Kẻ tu luyện, tu đến Tứ Trọng cảnh cũng là hơn người, một thân cũng có thể vang danh. Mà từ Tứ trọng cảnh, mỗi lần đột phá là một lần sinh tử, đạt đến tứ trọng cảnh. Kẻ tu hành gần như thoát phàm tục, không còn vương vấn đến chuyện thế nhân. Đạt đến Tứ trọng cảnh, nửa phàm nửa tiên, thân hỗn độn, tâm hỗn loạn. Đạt đến ngũ cảnh, mà không có mộng đạo thì ra Bể Hải cũng khó, huống chi một tay với trời?! Hà… .(tiếng thở dài) Chỉ là ta muốn chọn truyền nhân thôi, một đời Nho sĩ cũng quá nhạt nhẽo rồi.”
Trái lại, Văn Thánh vẫn chỉ im lặng lắng nghe, trên miệng còn nở một nụ cười nhạt. Ông tiến quân pháo về, lại dồn linh khí vào nó. Bóng hình thiếu niên quen thuộc hiện lên, cả hai lão tiền bối đều nhìn thấu. Văn Thánh hỏi nhẹ:
“ Ông…, có thấy thứ gì quen thuộc không?!”
Vị Nho sĩ kinh ngạc khi phát hiện ra bảo vật thánh cổ, từ vạn kiếp xa xôi. Ông phải tự thán lên:
“ Đây…, là Thuận Thiên Thánh Kiếm?! Không thể nào, không phải Mộc tiền bối vẫn trông nó sao?!”
Văn Thánh cười nhẹ:
“ Không sai…, chắc ông cũng từng nghe thấu câu nói ấy chứ?! Câu nói bố cáo thiên hạ ấy: “ Thân mang nữ nhi, đương tiếng yếu mềm, xong tùy lúc !
Ta !!! Trần Ngọc Nguyệt Như, một thân nữ nhi có thể …
một kiếm trảm chư thần !
một kiếm trảm thiên hạ !
duy chỉ bố cáo, thiên hạ lắng nghe !!!”.”
Vị Nho sĩ gật gù, vẻ mặt ông đã nghe thấu hết, trên miệng nở một nụ cười tự cảm thán:
“ Thuận Thiên Thánh Kiếm…, năm xưa Ngọc Hoàng một thân kiếm trảm nát hư không hỗn độn. Khai sinh Thiên Đình, lấy vạn tượng khí biến thành linh khí, thả xuống nhân gian thành khí linh. Sau thanh kiếm lạc mất chuôi, Ngọc Hoàng tự thân thả thanh kiếm xuống nhân gian. Lại viết lên một thời lịch sử, Thần Quy ( Huyền Quy) - Tứ Tượng Thượng Cổ Thiên Đình biến nhỏ gặp lại người xưa mang thanh kiếm xuống hồ nước, mà nằm ngủ mãi mãi. Sau này lại được Mộc Tiền Bối toạ trấn cũng Mộc Bản Độc Tự Kinh. Bây giờ xuất hiện ở tiểu bối này, lại thêm ba chữ mệnh lộ. Nếu để nói tới sau này thì hắn thành chính thần có gì là không thể.”
Văn Thánh thì trái lại, ông lắc đầu với lão Nho Sĩ kia:
“ Cha hắn là Trần Hạo Chí, là một thiên tài tu đạo tuyệt thế của Đại Ngu vương triều, đột phá Tứ trọng khi chỉ mới 37 tuổi. Mộng đạo khi năm 42 tuổi… ”
Vị Nho Sĩ không biết vì sao Văn Thánh lại nói với mình những lời này, bèn hỏi:
“ Ta biết tiểu tử đó, nhưng cớ gì ngài lại nhắc đến tên hắn?!”
“ Ông…, quên rồi sao?! Năm đó hắn đã thấy trước tương lai của con trai hắn, Bản Phận Mệnh Nhân năm đó năm đó hắn đập vỡ cũng chính là của con trai mình. Sau đó chết đi mà lưu lạc chốn xa xăm, không luân hồi, không siêu thoát.”
Nói đến đây, vị Nho sĩ lại thấy điều lạ lẫm:
“ Bản Phận Mệnh Nhân đã vỡ, thiên đình cũng không biết trước được thiếu niên đó. Cớ sao bây giờ vẫn có thể sống.”
Văn Thánh cười nhạt:
“ Thuận Thiên Thánh Kiếm cũng không thuộc về Thiên Đình, cũng không ai biết nguồn gốc của nó. Nhưng chính thánh kiếm đã lựa truyền nhân, mà Ý Chí Thiên Đạo cũng che chở cho hắn. Thế nên, Ngọc Hoàng tuyệt nhiên không thể ra tay. Lại chỉ có thể, âm thầm sắp xếp kẻ đó quy vào Thiên Đình, đó cũng là lý do mà hắn lại có nhiều cơ duyên trời ban như vậy. Ngay cả nữ tử đó, kết duyên phận cũng do trời định. Cũng chính vì thế mà Thiên Đình cũng mất đi sự kiểm soát cả bốn vương triều, mệnh lộ những kẻ tu hành chưa mộng đạo không thể thấu xét, càng không thể định phận lộ tường.”
Vị Nho sĩ cuối cùng cũng hiểu ra, ông ta hỏi lại Văn Thánh. Vừa hỏi lại vừa tiến thêm rất nhiều quân cờ:
“ Vậy những kẻ trong Thăng Long thành, ngài có thể thấu sõi hay không?!”
Văn Thánh nhẹ nhàng lắc đầu. Ngài nói thêm:
“ Sắp tới kẻ đó sẽ giá đáo, ông có chắc là bản thân mình bây giờ muốn rời đi chứ?!”
Vị Nho sĩ đáo lại:
“ Mấy ngày, mấy tháng, mấy năm, cũng chỉ như cái chớp mắt. Ta đợi, ta đợi.”
“ Một góc chốn lạ giữa lòng phàm trần…”
Giữa mặt hồ Gươm như một tấm gương ngọc bích, đền Ngọc Sơn tựa tiên phủ lặng lẽ tọa lạc trên đảo nhỏ. Cầu Thê Húc đỏ thắm như một dải lụa hồng bắc ngang mặt nước, dẫn khách trần dạo bước về chốn linh thiêng.
Cổng Đắc Nguyệt Lâu sừng sững như cánh cổng thông thiên, nơi con người vẫn thường lui tới. Hai bên có đôi câu đối tuyệt bút, chữ vàng lấp lánh như có khí linh phát ra. Tương truyền, những đêm trăng tròn, ánh trăng xuyên qua cổng tạo nên vầng hào quang huyền ảo.
Bên trong điện thờ, tượng Văn Xương Đế Quân ngự trị uy nghiêm, tỏa ra khí thiêng liêng của bậc thần tiên. Những nén nhang nghi ngút bay lên như mây lành, hòa quyện cùng hơi thở của các bậc tiền nhân. Đôi khi, người ta còn bắt gặp bóng dáng các cụ đồ nho áo dài khăn đóng, thong dong ngâm thơ bên hiên đền như những vị tiên hạ phàm.
Đó là những lời tả lại của các bậc Văn Sĩ đi trước mà Hạo Dương đọc được, tuy hơi quá phóng đại nhưng hắn lại vẫn có thể cảm nhận được cái xưa cổ trong ấy. Nhưng vẻ đẹp của nơi này là điều không thể bàn cãi, một vẻ đẹp cổ kính toát ra cái thăng trầm theo tháng năm của vạn vật.
Khoảng sau.
Tuy không chung đường nhưng Trí Trung vẫn theo sát Hạo Dương, hắn tuy khó chịu nhưng ngay từ đầu gặp cũng đoán ra là kẻ này muốn tiếp cận mình.
Hắn cũng muốn nhân cơ hội mà hỏi thăm tình hình nơi này, cũng thật tốt khi Trí Trung lại hỏi:
“ Trần Dương huynh, lần này huynh đến thành Thăng Long là để làm gì vậy?!”
Hắn không ngần ngại nói
“ Ta muốn đến Văn Miếu Quốc Tử Giám để… ”
Chưa nói hết câu mà Thiên Tường cũng đã nhảy vào miệng của Hạo Dương mà nói tiếp:
“ Thì ra Trần Dương huynh cũng muốn đến Văn Miếu Quốc Tử Giám, sau này khéo chúng ta lại không thể làm bằng hữu rồi.”
Hạo Dương hắn cười nhạt, lắc đầu:
“ Thiên Tường huynh, mời nói rõ hơn.”
Thiên Tường hoài nghi nhìn về Hạo Dương, hắn thấy trong ánh mắt của kẻ này hoàn toàn không giống kẻ nói dối. Chứng tỏ một điều Trần Dương không hề biết đến nơi này mà đến, hắn hỏi:
“ Trần Dương huynh không biết thật sao?! … . Thôi vậy, để ta nói huynh nghe. Văn Miếu Quốc Tử Giám mỗi 5 năm một lần vào tháng Ba đều tổ chức bài thi kiểm khách. Nói là bài thi kiểm khách nhưng thực chất là khảo nghiệm của Văn Thánh đời thứ hai để lại, nếu huynh vượt qua được thánh thư thì biết đâu lại may mắn được vào Văn Miếu học tập, không chí ít lại ngộ được chữ mệnh lộ nào đó.”
Hạo Dương hắn lắc đầu nói:
“ Ta không quan trọng mấy thứ đó, thứ ta nhắm đến là tế đàn dịch chuyển. Chữ mệnh lộ với ta không quan trọng, vào Văn Miếu học tập cũng vậy thôi.”
Hắn nhìn lên hai kẻ tâm tư sâu lắng, cứ như chúng đang cười thầm. Trí Trung hắn thấy vậy cũng không nói nữa, hành kính chào:
“ Thiên Tường huynh, Trần Dương huynh, tại hạ còn có việc nên xin phép cáo lui.”
Rồi hắn rời đi, trên miệng vẫn nở một nụ cười nhẹ.
Thiên Tường nhìn hắn, nói tiếp:
“ Trần Dương huynh, bây giờ ta đưa huynh đến mấy nơi còn lại nhé.”
Hạo Dương gật đầu, cho đến tối thì hắn cũng ghi nhớ hết. Hắn cũng muốn thăm thú nhiều hơn đó đều là những thánh địa của Phật Tu. Cũng may là ở Ô Quan Chưởng còn lưu lại đôi chút dấu chân…
Trấn Quốc tự, ngôi chùa cổ tọa lạc giữa mênh mông Tây Hồ tựa một bảo điện tiên cảnh. Những tầng tháp cổ kính vươn cao như thanh kiếm báu chỉ thiên, ẩn hiện trong làn sương mờ ảo của buổi bình minh. Đây là nơi các cao tăng đắc đạo thường xuyên tụ hội, luyện công tham thiền. Những cánh cửa gỗ nhuốm màu thời gian như cánh cổng dẫn về quá khứ xa xăm, nơi tiếng chuông chùa vẫn ngân vang, xuyên thấu qua không gian và thời gian.
Chùa Một Cột hiện ra tựa một đóa sen đá nghìn năm tuổi vươn mình từ mặt hồ. Trụ đá duy nhất chống đỡ ngôi chùa như một đạo pháp ấn của thần tiên, khiến công trình này đứng vững trước phong ba bão táp của trần thế. Theo truyền thuyết, đây là nơi Phật Bà hiển linh trong giấc mộng của vua Lý Thái Tông, ban phước lành cho đất nước. Những bậc thang dẫn lên chùa như con đường tu tiên, nơi bao kẻ hành hương tìm về cõi tịnh.
Ô Quan Chưởng hiện diện tựa một cánh cổng không gian, là ranh giới thiêng liêng giữa hai thế giới phàm trần và tiên giới. Những viên gạch cổ xưa vẫn còn lưu giữ dấu ấn thời gian, chứng kiến bao cuộc tranh hùng giữa các môn phái võ lâm thuở trước. Tương truyền, vào những đêm trăng tròn, nơi đây vẫn còn vang vọng tiếng binh khí va chạm của các cao thủ giang hồ năm xưa. Cổng thành cổ kính như một cột mốc thiêng, đánh dấu ranh giới giữa phố cổ Thăng Long với thế giới bên ngoài.
Ba di tích này như ba viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa Thăng Long - Hà Nội, mỗi nơi đều mang một vẻ đẹp riêng, một câu chuyện riêng, nhưng đều toát lên vẻ đẹp huyền bí, linh thiêng của một thời vàng son. Dù thời gian có trôi qua, nhưng những địa danh này vẫn giữ nguyên vẻ đẹp tiên cảnh, như những dấu ấn bất tử của một thời đại huy hoàng đã qua.
1
0
2 tuần trước
2 tuần trước
BÌNH LUẬN TRUYỆN (0)
