Chương 12
Ambedor
Một tư tế già bước lên, đôi tay nâng cao một cuộn vải thô, trên đó là những dòng kinh văn được thêu chỉ vàng đã bạc màu theo thời gian. Giọng ông chậm rãi cất lên, đọc từng câu thần chú cổ.
"Trước khi có ánh sáng nơi đỉnh tháp, trước khi có tiếng chuông ngân trong đêm, trước khi con người biết khắc tên mình lên bia đá, đã từng có những linh hồn trôi dạt trong vô định. Hỡi đất mẹ Cao Lăng, hỡi dòng máu của tổ tiên, chúng con quỳ đây để gọi tên những người đã khuất, để nối liền sự sống và cái chết bằng ký ức bất diệt."
Những người xung quanh cúi đầu, thì thầm lặp lại từng chữ, giọng của họ hòa vào nhau thành một điệp khúc trầm hùng.
Bỗng nhiên, ngọn lửa trên bát đồng run rẩy, rồi bất chợt chuyển thành một sắc xanh u tịch. Một cơn gió lạnh thổi qua, khiến những tấm bia đá kêu rên khe khẽ. Dưới nền đất, như có một tiếng thì thầm vọng lại—là lời của ai đó từ xa xưa, hay chỉ là ảo giác của những người quỳ nơi đây?
Lão Thạch Hạc nhắm mắt, gương mặt đầy nếp nhăn trầm mặc. Ông cất tiếng, khàn nhưng vững vàng:
"Tổ tiên không bao giờ lãng quên những kẻ còn sống, cũng như những kẻ còn sống không bao giờ được lãng quên tổ tiên."
Những lời đó chìm vào không gian, lẫn vào hơi thở của đá và bóng tối.
Các tư tế chậm rãi di chuyển trên nền đá lạnh, từng bước chân của họ vang vọng trong không gian yên ắng. Họ mang theo những bát nước thánh, thứ chất lỏng trong vắt phản chiếu ánh lửa bập bùng từ các ngọn đuốc. Mùi nhựa thơm từ hương trầm lan tỏa, quyện vào làn không khí lạnh đầu đêm, tạo nên một cảm giác vừa thiêng liêng vừa trầm mặc.
Lần lượt, từ trẻ nhỏ, phụ nữ, nam thanh niên, đàn ông, rồi đến các bô lão, từng người cúi đầu khi nước thánh chạm vào trán họ. Một cử chỉ ngắn gọn nhưng đủ để họ cảm nhận sự hiện diện của đấng linh thiêng. Gia đình Aresene cũng tiến lên, bắt đầu từ mẹ, em gái, em trai, rồi đến cậu. Khi nước thánh lướt nhẹ trên da, một cảm giác mát lạnh chạy dọc sống lưng cậu, tựa như chạm vào một ký ức xa xăm nào đó.
Hoàn tất nghi thức, cậu chậm rãi bước về phía bài vị đặt trên bậc thang đá. Dưới ánh nến leo lét, từng tấm bài vị bằng gỗ đen khắc tên những bậc tiền nhân, ánh lên vẻ uy nghiêm. Cậu quỳ xuống, đầu cúi thấp, lòng khấn nguyện trong yên lặng. Bên ngoài, tiếng gió nhẹ khẽ lay động những mảnh lụa trắng treo trên các trụ cột, tạo nên âm thanh thì thầm tựa như lời thì thầm của những người đã khuất.
Sau hồi lâu, nghi lễ kết thúc. Những đứa trẻ hò reo khi nhận được bột huỳnh quang – thứ ánh sáng lấp lánh tựa như những mảnh sao vụn. Chúng tung bột lên không trung, để từng hạt nhỏ rơi xuống, phát sáng trên mặt đất như một bức tranh ngân hà thu nhỏ. Một số đứa trẻ khác lại rắc xuống dòng sông, để những đốm sáng xanh lơ trôi theo dòng nước, phản chiếu ánh trăng trên cao.
".........."
Cảnh tượng ấy khiến Aresene thoáng sững sờ, một lần nữa cảm giác quen thuộc kỳ lạ lại trỗi dậy.
Lúc này, mọi người dần rời khỏi khu vực hành lễ, sau cùng chỉ còn Aresene và cha cậu ở lại cùng ông lão Thạch Hạc. Lúc này bại phần chỉ còn số ít người thuộc giáo đừng và các hộ vệ của ông vẫn ở đó .Còn cậu theo bổn phận của người con cả trong nhà Rostove nên phải ở lại cùng cha cậu khi không còn bóng người nào ở đây nửa mới được phép rời đi
"Được rồi, ta hiểu rồi. Con hãy đi theo sát đoàn người và báo lại cho ta tại nhà thờ khi vợ và hai con ta đã về đến nơi an toàn."
"Vâng, thưa ngài. Xin cứ yên tâm."
"Được rồi, con có thể trở về vị trí của mình."
Cha cậu vẫn ở lại, đích thân chỉ đạo đội lính trực thuộc để đảm bảo an ninh cho lễ hội, cẩn trọng từng chi tiết nhằm giữ cho buổi lễ diễn ra trọn vẹn và không có biến cố. Khi xong việt bên này thì cha cậu lại chuyển hướng sang các tư tế bên cạnh và hội nhập cùng họ trò chuyện hai ba cậu .Còn cậu chỉ đứng một bên góc xa mà quan sát tình hình .Đột nhiên cậu thấy cha cậu vẩy tay kêu cậu lại ,cậu theo lời ông mà tới
" Tôi đoán các vị cũng phần nào có thể đoán ra đứa trẻ này là ai rồi ,Tư tế Graniel ngài phải làm tôi nể phục đấy có lẽ một số vị có thể không biết đây là con cả trong nhà chính của tôi con trai chàu hỏi chút với họ đi con đây là đoàn linh tế đường lần này phận sự theo cha giáo của linh đoàn Pharen tới phụ cho lễ tuần thánh lần này đó con từ trái sang lần lượt là tư tế Graniel tư tế Aurelius tư tế Cassianus tư tế Florianus tư tế Ignatius tư tế Julius và tư tế Lucianus "
Ông dũa bàn tay ra và chỉ lần lượt từng vị trí của các quan tư tế mặc trường trắng đổ xuống đấy các vị điều rất thành kính khi ra kiếu hiệu cầu nguyện khi được giới thiệu qua tên đệm của họ .Để không làm tình thế khó sử cậu cũng ra dấu kí hiệu với từng người và cũng không quên giới thiệu bộn phận của mình
" Rất hận hạnh được gặp các vị ngày hôm nay tên tôi là Aresene Von Rostov thuộc pha hệ chính của nhà và là con cả của nhà Rostov "
Graniel: “Aresene Von Rostov, một cái tên mang trọng trách. Ta từng nghe về gia tộc của cậu, và quả thực, con trai trưởng của dòng chính không khiến người ta thất vọng.”
Aresene cúi đầu đáp lễ, đôi mắt cậu thoáng ánh lên tia dò xét.
Aresene: “Ngài quá lời rồi, thưa Tư tế Graniel. Ta chỉ là kẻ đang từng bước học hỏi, chưa dám nhận sự tán dương.”
Tư tế Cassianus, người đứng cạnh Graniel, cất tiếng với vẻ ôn hòa.
Cassianus: “Khiêm tốn là phẩm hạnh đáng quý. Nhưng với trọng trách trên vai, có đôi khi người ta không được phép khiêm tốn quá mức, cậu chủ Aresene.”
Một nụ cười nhàn nhạt thoáng hiện trên môi Aresene, nhưng cậu không vội đáp. Trong khoảnh khắc ấy, Tư tế Florianus – một người có vẻ ngoài điềm tĩnh, dáng dấp của kẻ từng trải – chợt lên tiếng.
Florianus: “Đêm nay trời đẹp. Bột huỳnh đã được trẻ nhỏ rắc lên bầu trời, mang theo những ước nguyện của dân chúng. Cậu có mong ước gì không, Aresene?”
Cậu khẽ ngẩng lên, nhìn thoáng qua bầu trời đêm, nơi những hạt bụi sáng vẫn lấp lánh bay trong gió.
Aresene: “Ước nguyện ư? Có lẽ là… một tương lai không bị những xiềng xích của số phận trói buộc.”
Một cơn gió thổi qua làm lay động những tấm áo choàng trắng của các tư tế. Graniel mỉm cười, nhưng ánh mắt ông lại chất chứa điều gì đó sâu xa hơn.
Graniel: “Một mong ước thú vị. Nhưng người càng mong thoát khỏi số phận, thì số phận lại càng tìm đến họ.”
Aresene không đáp. Đoàn tư tế cũng không nói thêm. Giữa họ chỉ còn sự trầm mặc của những kẻ đã nhìn thấu quá nhiều điều trong cõi nhân gian.
Cha cậu sẽ tiếp tục tham gia cùng các tư tế trong một nghi lễ khác, còn Thạch Hạc ở lại đó, lẽ ra cũng phải đi cùng họ, nhưng ông chọn ở lại. "Ta muốn ở lại một chút, con ta còn ở ngoài kia," ông lẩm bẩm, ánh mắt vẫn hướng về bài vị của những bô lão.
Thế là giờ trong cái hang động này còn đúng mình cậu và quý ông lão Thạch Hạc ở đây ,ông cứ mãi đứng đờ đẫn ở đó mãi mà nhìn vào các bài vị trên bậc tháng đá đó cậu cũng không biết làm gì ,thúc dục thì không được mà đứng yên cũng không thôi nên cũng chỉ có thể lưỡng lờ xung quanh phía xong bống lương của quý ông già chấp chính lâu năm của thành Đại Doanh này
" Cậu là con cả nhỉ Arsene? "
" không ạ là Rostov thưa ngài "
" gì đây thân mang đấng nam hài mà vì có lần ta chọc nhóc mà vẫn còn giận tới giờ à "
Hồi ức cũ tràn về như một dòng nước chảy ngược. Khi ấy, Aresene chỉ là một đứa trẻ tám tuổi, tràn đầy kiêu hãnh và bướng bỉnh như bất kỳ thằng nhóc nào cùng tuổi. Cậu nhớ rõ buổi chiều hôm đó, bầu trời phủ một màu vàng nhạt của hoàng hôn muộn, gió thổi qua khu vườn làm xào xạc những tán cây hòe già.
Lão Thạch Hạc, vẫn với dáng vẻ nhàn nhã của một kẻ đã sống qua nửa đời người, ngồi bên gốc cây, đôi mắt híp lại đầy tinh ranh. Ông lão không cần nhiều lời, chỉ đơn giản vẫy vẫy miếng bánh nướng trên tay và liếc nhìn cậu bằng ánh mắt khiêu khích. "Nhóc con có giỏi thì trèo lên đi." Dĩ nhiên, cậu chẳng cần ai thách thức.
Thế là cậu trèo lên, bàn tay nhỏ bấu vào vỏ cây xù xì, đôi chân thoăn thoắt bám vào từng nhánh như một con sóc nhỏ. Gió rít bên tai khi cậu leo lên cao hơn, cảm giác chinh phục ngập tràn trong lồng ngực non nớt. Nhưng rồi... cậu chững lại. Một cành cây khẽ rung dưới chân. Khi nhận ra độ cao của mình, một cơn ớn lạnh lặng lẽ bò dọc sống lưng.
Cậu ngoái xuống nhìn. Lão già dưới gốc cây vẫn ngồi đó, điềm nhiên nhấm nháp bánh nướng, chẳng hề có dấu hiệu gì sẽ giúp đỡ. Đến lúc này, Aresene mới nhận ra mình đã bị gài vào một cái bẫy tinh vi—không phải do ai ép buộc, mà là chính lòng kiêu hãnh của cậu đã đẩy cậu vào tình cảnh này.
Ánh hoàng hôn dần tắt. Cơn đói len lỏi vào bụng, hòa cùng sự bực bội và chút hối hận. Nhưng lão Thạch Hạc vẫn ung dung như chẳng có chuyện gì xảy ra. Cứ thế, cậu mắc kẹt trên cao đến tận chiều tối, chỉ biết ngồi đó, chân lơ lửng, nhìn xuống lão già dưới gốc cây mà thầm nghiến răng nghiến lợi.
"Ngài nghĩ tôi nhỏ mọn vậy sao, thưa ngài?"
"Chứ không phải à?"
"Tất nhiên là không rồi, thưa ngài."
"Vậy sao còn đứng đây? Không về với mẹ ngươi đi?"
"Cháu phải ở lại đến khi người cuối cùng rời khỏi hang động mới được phép đi, thưa ngài."
"Trời ạ, đám trẻ tụi bây thật là... Chẳng ai chém nhóc đâu, ném mấy cái nghi lễ cứng nhắc đó sang một bên đi. Dù gì cái ghế chủ tọa đó cũng chẳng đến lượt nhóc giữ đâu mà còn cố làm gì?"
"Cháu biết mà, biết rất rõ nữa là đằng khác. Cái ghế đó là của Jame, nhưng thằng bé chưa đủ tuổi để đứng đây khuyên ngài về đâu."
"Ồ? Nhóc chắc chứ?"
"Chắc như việc đêm nay ngài sẽ lại ngủ gật trên tảng đá đó, ngáy to đến mức đàn cú cũng phải dọn tổ mà bay đi. Hay phải xem đồ đệ ngoan của ngài ở ngoài kia nghĩ sao khi thấy cậu cả nhà Rostov ôm chân một ông lão còn già hơn cả cha mình mà xin khấn vái cho cháu về nhà ngủ ngon.""
"Hừ, đám trẻ bây giờ đúng là lắm chuyện khiếp!"
"Cháu chỉ nói sự thật thôi mà, thưa ngài Thạch Hạc."
"Được rồi, biến đi! Nhóc cũng biết ta có nguyên tắc của mình mà."
"Vâng, ngài cứ thể hiện. Chúc ngài một đêm thật mỹ mãn với lũ muỗi trong vòng tay của Đức Mẹ Selena."
Sau khi từ biệt Thạch Hạc, Aresene rời khỏi khu rừng. Đường về tối mịt, nhưng ánh đuốc mượn từ hộ vệ của cha giúp cậu thấy rõ lối mòn quanh co. Gió khuya mang theo hơi lạnh, lướt qua gương mặt cậu như một lời nhắc nhở vô hình. Nhưng cái lạnh ấy cũng không đủ để xua tan những suy nghĩ rối ren đang cuộn chặt trong lòng
Đi qua khoảng đất rộng, cậu trông thấy một nhóm trẻ con vẫn còn nô đùa dưới ánh trăng. Chúng cười nói rộn ràng, những hạt bụi sáng bay lên trời rồi lặng lẽ rơi xuống nền đất, tạo thành những điểm sáng lấp lánh. Xa xa, trên mặt sông, ánh sáng xanh biếc lơ lửng tựa như những linh hồn nhỏ bé đang trôi dạt. Tất cả tạo nên một khung cảnh vừa huyền ảo vừa ám ảnh, như thể nó không thuộc về thế giới thực tại mà là một đoạn ký ức lãng quên nào đó vừa vô tình sống lại.Nhưng cậu vẫn là không biết loại cảm nhận ấy là gì nhưng cứ thế cứ là cho qua
Cậu chợt nảy ra một ý trong đầu: có lẽ nên ghé qua quán rượu một chút trước khi về ngủ. Nghĩ là làm, cậu cứ thế bước đi, men theo những con đường lát đá dài bất tận. Thỉnh thoảng, ánh huỳnh quang rải rác trên mặt đường hay phản chiếu lấp lánh trên dòng sông chảy qua. Một lúc nào đó, cậu thoáng thấy một chiếc thuyền nhỏ kết bằng lá trôi theo dòng nước, xuôi về hạ nguồn.
Từ khi còn nhỏ, cậu không tiếp xúc với thế giới bên ngoài quá nhiều. Những gì khiến cậu đắm chìm nhất không phải là những cuộc vui chơi hay những người bạn đồng trang lứa, mà là câu hỏi "Tại sao?" và "Là cái gì?"—những bí ẩn vĩ đại mà cậu khao khát giải đáp. Thay vì rong chơi cùng đám trẻ trong thành, cậu giam mình trong thư phòng, miệt mài với những trang sách, những tờ giấy viết kín bằng than chì. Có lẽ vì thế mà cậu chẳng có nhiều bạn bè, cũng không giỏi giao tiếp. Nhưng cậu chưa từng bận tâm về điều đó.
Đêm nay trời rất đẹp. Trăng tròn, sáng vằng vặc, vây quanh là muôn vàn tinh tú tỏa ánh sáng mờ ảo trên bầu trời. Quang cảnh ấy khiến cậu nhớ đến một luận cương xa xưa của một nhà hiền triết vào khoảng năm 400 của Kỷ Nguyên Huyền Tịch—một thời đại mà con người còn tin rằng chính họ là trung tâm của vạn vật. Khi ấy, người ta tin ngày và đêm chỉ là sự luân phiên của trời đất, mọi vật vận hành xoay quanh đều từ bản chất của con người mà thành .
Nhưng giữa thời kỳ đó, đã có những bộ óc vĩ đại không chấp nhận thứ học thuyết này. Họ âm thầm tìm kiếm căn nguyên thực sự của thế giới, bất chấp nguy cơ bị coi là dị giáo. Và rồi, một khám phá kinh thiên động địa ra đời: thế giới này không hề lấy con người làm trung tâm. Vạn vật không xoay quanh điểm tựa nào cố định, mà vận hành theo những quỹ đạo hình elip, thậm chí có thể là một quỹ đạo hỗn hợp khó đoán hơn dãi tần obitan của tư tế Geaorona đề xuất vào nhưng năm 578 theo Kỷ Nguyên Thiên Tịch .
Tiếc thay, thời đại đó vẫn còn chìm đắm trong u mê. Những kẻ tự xưng là người nắm giữ chân lý lại nhân danh Chúa mà chối bỏ tri thức. Những con người dám đứng lên phản bác bị thiêu trên giàn hỏa, bị gọi là dị giáo, là tà đạo. Một thời kỳ ngu muội đến mức không thể cứu chữa...
Nhưng may mắn thay, giữa sự áp bức đó, một tầng lớp mới dần xuất hiện: những hiệp pháp nhân, hay còn gọi là vũ sư—những người nắm giữ tri thức và sức mạnh chiến đấu. Dưới thời ấy, những cuộc đàn áp của giáo đường không chỉ nhằm vào kẻ ngoại đạo, mà còn chà đạp lên lòng kiêu hãnh của những kẻ khao khát giải mã bí ẩn thế gian. Sự đối lập ấy nhanh chóng làm bùng lên một phong trào đấu tranh tư tưởng, rồi lan rộng thành các cuộc xung đột nhằm giành lại quyền lợi đã bị tước đoạt.
Ban đầu, chỉ là những cuộc nổi dậy quy mô nhỏ, nhưng rồi tầng lớp tri thức liên kết với nhau, tập hợp các vũ sư và những người bị áp bức. Họ không chỉ bảo vệ những giá trị của mình, mà còn thúc đẩy phong trào phản kháng thành một cuộc chiến công phá trên diện rộng. Đỉnh điểm là Tình Chế Ba Lan—một cuộc xung đột vĩ đại giữa Thánh Điện và liên minh gồm các nhà tư tưởng, các vũ sư, cùng vô số dân nô bị bóc lột tàn nhẫn suốt nhiều thế hệ.
Thiệt hại là vô cùng lớn. Máu đã đổ, mạng đã mất, nhưng cái giá ấy không phải vô nghĩa. Dù Thánh Điện nắm trong tay quân đội mang danh thần thánh, họ vẫn không thể dập tắt ngọn lửa tư tưởng đã bùng lên. Cuối cùng, giáo quyền sụp đổ. Quyền lực của Hồng Giáo bị tước đoạt, và ngai vị giáo hoàng được trao lại cho một bậc hiền triết kiệt xuất—một nhà chính trị vĩ đại, một người yêu nước và bảo vệ sự khai sáng: Averroës Lucianus Tiberius von Sargon Velka.
Người đời sau gọi ông là Vị Giáo Hoàng của Lý Trí. Ông lên ngôi không phải nhờ dòng dõi hoàng tộc, mà bằng sự ủng hộ của các nhà tư tưởng và chính những con người từng bị đàn áp. Cùng với ông, một nhân vật huyền thoại cũng bước ra từ bóng tối lịch sử—Thánh Nữ Phù Tạ không rõ danh tính và tên tuổi những lại là, người bảo trợ cho những đức tin bị vùi dập. Và thế là một thời đại mới bắt đầu—thời đại mà tri thức và tư tưởng cá nhân không còn bị bóp nghẹt, mà trở thành nền tảng cho cả một xã hội hiện giờ của đến quốc .
Mà thôi, chuyện xưa để đó, cậu vẫn cứ đi, bước qua lớp bụi sao lấp lánh giữa đêm. Thành trấn phía trước, vài căn nhà đã tắt đèn, vài căn vẫn còn ánh sáng le lói. Cậu ngang qua một tấm bảng gỗ cũ kỹ, dòng chữ trên đó đã bạc màu theo năm tháng:
“Tửu Quán Chó Hoang & Lưỡi Dao – Uống Một Ly, Quên Một Đời.”
Những cây nến dọc hiên vẫn cháy leo lét. Ở phía xa, mấy gã trung niên bụng phệ đang lè nhè bước vào quán, quăng một câu chào chủ quán mà nghe như đang chửi thề.
Cậu đẩy cửa bước vào.
Mùi rượu nồng sộc vào mũi ngay tức khắc. Không khí bên trong như một cái chảo lửa—nóng, đặc quánh bởi khói thuốc, mùi bia, và hơi người. Tiếng hò hét, tiếng cười rộ lên mỗi khi ai đó kể một chuyện tục tĩu, tiếng chửi rủa của mấy kẻ thua bạc. Ở góc kia, một gã say gục mặt xuống bàn, nước miếng chảy ướt cả tay áo. Đèn dầu vàng nhạt soi không tới mấy góc tối,
Chào mừng đến với quán rượu. Ở đây, không có đúng sai, chỉ có kẻ còn đứng được và kẻ đã gục xuống dưới sàn.Dưới ánh đèn dầu vàng vọt, quán rượu đêm nay coi bộ còn náo nhiệt hơn mọi khi. Mới đứng ngoài cửa đã nghe tiếng cười hô hố xen lẫn tiếng chửi thề, ly chén cụng nhau lanh canh, mùi men cay xộc thẳng vào mũi. Mấy gã bụng phệ, áo xộc xệch, mặt đỏ gay, tay vung vẩy bọt bia, đang nhao nhao kể chuyện đời. Có kẻ huơ tay múa chân như đang giảng đạo lý, có kẻ gục đầu xuống bàn, ngáy khò khò giữa đám đông hỗn loạn.
Ngay góc quán, một ông già râu tóc bạc trắng, quần áo nhàu nhĩ, ngồi tựa lưng vào vách, mắt lim dim như thể chẳng màng đến sự đời. Thế nhưng, vừa có ai nhắc tới chuyện chính trị, ông ta liền vỗ bàn đánh rầm, giọng lè nhè nhưng đầy uy quyền:
— Đám quan lại ấy mà, chẳng khác gì mấy con kền kền, toàn chực chờ xâu xé!
Cả quán bật cười ầm ĩ, có kẻ giơ ly lên hô hào tán thành, có kẻ thì lắc đầu cười khẩy. Xa xa, một gã thanh niên gầy nhom đang ngồi trên thùng gỗ, miệng thổi sáo một điệu nhạc cũ kỹ, tiếng sáo len lỏi qua từng kẽ rạn của quán, như muốn kéo chút hoài niệm vào giữa cái ồn ào hỗn độn này.
" Cho một phần rượu mạnh đi ông chủ "
" Hôm nay chổ tao chỉ có bốn phần rượu chính của ngày hôm nay thôi "
" oh vậy loại nào thế ông chủ ? "
"Chà! Nhóc con, chắc chưa biết mùi đời ha? Nhưng nhìn cái tướng mày chắc cũng chán đời lắm rồi. Thôi, uống đi, ta bán cho loại vừa miệng mà không làm mày lăn quay ra đất.
Đây này—Sương Sớm, trong như nước giếng làng, nhẹ êm mà ngấm lâu. Mày uống một hớp, tưởng chẳng xi nhê, nhưng chừng nửa canh giờ sau, đầu lâng lâng, lòng ấm lên như vừa ôm một bầu trời.
Còn muốn thử cảm giác mạnh hơn á? Hỏa Hầu Tửu—nghe tên là biết, uống vô một phát nóng ran từ cổ xuống bụng, rát mà đã. Đám phu khuân vác hay làm một hớp lúc sáng sớm để tỉnh ngủ, nhưng cẩn thận, uống không quen là đỏ bừng mặt mày đó.
Mà nếu nhóc muốn giả bộ dân chơi, thì đây, Ngư Ông Mộng. Thứ này ngọt đầu mà hậu cay, như tình đầu vậy. Nhấp nhẹ thì thấy thơm, mà uống sâu thì say lú. Dân chài hay ngồi ngắm trăng mà làm một bầu, mày thử một lần, biết đâu lại thành thi sĩ.
Nhưng nghe này, nếu có gan, tao có Lão Tặc Trần—rượu này chát, gắt, uống vô như bị lão già nghiện thuốc phiện tát một phát vô họng. Chỉ dân sành rượu mới uống được. Sao ? Mày có chắc dám thử không?"
Nghe ông chủ kể một tràng cậu chỉ biết cười trừ với mấy loại rượu ở đấy ,nhưng thôi nếu đã là ngày lễ sao lại không thử đây thế là cậu nghĩ trong đầu và làm luôn
" Tôi đã đến thì sao lại không giám thử đấy vậy một bát Lão Tặc Trần và một chút đồ nhắm mặn tí nhé "
" mày cũng chơi khôn quá đấy ,được rồi không ngăn gì cho mày về ngủ rung đùng với vợ mày luôn cũng chả ý kiến của mày 9 penny đấy nhé "
" cắt cổ quá "
Cậu nghe giá có chút bi ai xong cũng là nén tang đau thưng mà lôi ra vài đồng penny đưa cho gã chủ quán ,ông ta cười khinh khỉnh thì trở lại vào trong gian bếp phụ sau quầy mà lấy món riêng cậu thì dựa tay lên bàn ngồi ghế mà chờ đồ lên không quên hông hớt chuyện của mấy ông mòn rượu ở đây
Trời vừa sập tối, đám người trong quán rượu đã bắt đầu nhốn nháo, men cay làm lưỡi ai cũng trơn tru hơn thường lệ. Gã chủ quán, bụng phệ và hói đến tận sau gáy, chống tay lên quầy, giọng ồm ồm:
“Thôi nào, có thằng nào muốn kể chuyện không? Nếu không thì câm miệng mà uống!”
Một gã tóc bù xù, áo choàng nhăn nhúm, tự nhận là kẻ lữ hành (nghe sang thế chứ thật ra nhìn giống thằng đào ngũ hơn) vỗ bàn, cười hô hố:
“Để ta kể! Một câu chuyện về mỹ nhân!”
Mọi người lập tức xúm lại, kẻ kê ghế, người vục tay vào bát lạc rang. Cái gì liên quan đến đàn bà là đám này thích lắm.
Gã lữ hành rót một ly đầy, nhấp một ngụm cho thêm phần kịch tính, rồi kể:
“Năm đó ta lang bạt đến một trấn nhỏ, có cái quán trọ rách nát, nhưng bà chủ thì… ôi chao! Trắng trẻo, đầy đặn, cái eo còn thon hơn mấy mụ quý tộc!”
Gã vừa nói vừa giơ tay múa may minh họa, làm đổ luôn ly rượu của thằng bên cạnh. Nhưng đám xung quanh chẳng ai quan tâm, tất cả đều dán mắt vào hắn.
“Hôm đó ta thuê phòng, trong lòng không khỏi thầm nghĩ: ‘Biết đâu đấy, ta lại được một phen hưởng phúc.’”
Vài thằng cười hềnh hệch. Một tên béo hỏi ngay: “Vậy hưởng được không?”
Gã lữ hành lắc đầu, thở dài như thể đời này toàn cay đắng.
“Đến tối, ta quyết định thử vận may, bèn rón rén bước xuống bếp, thấy bà chủ vẫn còn ngồi đó, tóc buông xõa, ánh lửa hắt lên khuôn mặt trông… mờ ảo làm sao.”
Gã nhấc ly rượu, uống cạn một hơi.
“Ta tiến lại gần, nhẹ giọng gọi: ‘Phu nhân à, một đêm trăng thế này mà ngồi một mình thì… thật cô đơn.’”
Đám xung quanh ồ lên đầy hứng thú. Một gã hỏi ngay: “Bả nói gì?”
Gã lữ hành chống tay lên bàn, trầm giọng bắt chước:
“‘Ờ, tao cũng thấy vậy, nên đang chờ chồng tao về để đập chết thằng nào dám léng phéng.’”
Cả quán rượu cười ầm lên, một thằng vỗ đùi đen đét. Gã lữ hành gật gù:
“Ta lập tức tỉnh rượu, xoay người bước đi, nhưng chưa kịp rời khỏi bếp thì sau lưng có tiếng động. Ta quay lại—”
Hắn dừng lại một chút để tăng kịch tính.
“Và thấy một ông lão! Trần trùng trục! To con như con bò, râu ria xồm xoàm!”
Lần này, đám đông cười đến mức suýt sặc. Một tên gầy gò, đang ôm bụng, nói trong hơi thở đứt quãng:
“Rồi… rồi sao?”
Gã lữ hành làm bộ nghiêm túc:
“Thì ta lịch sự chào một tiếng rồi chạy luôn chứ sao nữa! Nghe bảo ổng là đô vật giải nghệ, bị ổng tóm thì đời ta coi như tàn!”
Lại thêm một tràng cười nữa.
Gã chủ quán chống nạnh, bĩu môi:
“Chuyện này nghe cứ như gã ăn trộm bị bắt quả tang.”
Gã lữ hành nhún vai:
“Không hẳn… Trộm thì chưa kịp, nhưng quả tang thì chắc rồi.”
Mọi người cười sặc sụa, rượu tràn cả ra bàn. Một gã khác, mắt sáng rỡ, đập mạnh ly rượu xuống bàn:
“Được rồi! Nếu nói về đàn bà, để ta kể về con gái quan phủ! Xem gái nhà lành mới là nghệ thuật!”
Sau khi gã lữ hành kể xong câu chuyện suýt thành con rể đô vật, đám bợm rượu vẫn chưa muốn dừng lại. Chuyện về đàn bà luôn là nguồn cảm hứng bất tận, nhất là khi trong bụng có tí men.
Một gã râu ria xồm xoàm, mặt đỏ gay, tự xưng là Kẻ đã nếm mùi ái tình (nghe như kiểu hiền triết thất bại), chống tay lên bàn, giọng lè nhè:
“Các ông nói về gái nhà lành, nhưng ta mới biết cái gì mới là thử thách thực sự… Đó là cua mấy mụ bà!”
Cả quán rượu ồ lên, có kẻ ho sặc vì nuốt rượu không kịp. Một thằng gầy gò, răng sún, chỉ tay cười hô hố:
“Bộ ông thích đàn bà có tuổi hả? Hay là nợ bạc xong phải ‘trả góp’ bằng danh dự?”
Tên râu ria gạt tay:
“Không phải! Chuyện là vầy… Năm đó ta tới một vùng quê, bụng đói meo, lết vào một quán trọ ven đường. Bà chủ quán—ôi trời ơi, nhìn thì biết ngay là hồi trẻ chắc đẹp lắm… Nhưng giờ thì…”
Gã làm động tác xoa cái bụng phệ của mình. Đám đông cười lăn lộn.
“Ta đói quá, gọi một bát canh nóng, uống một ngụm, tự dưng thấy… sao mà ngọt thế? Nhìn xuống thì ôi thôi, bà chủ đang cười với ta! Mắt sáng rỡ, hai cái má núng nính, nhìn ta như nhìn con heo mập!”
Một gã khác nấc cục, gõ bàn: “Vậy rồi sao?”
Gã râu ria nghiêm túc:
“Bả vỗ vai ta một cái! Trời đất quỷ thần ơi, ta thề nó mạnh hơn cả mấy cú đấm của võ sĩ! Rồi bả nói: ‘Thấy cậu tội nghiệp, hay là… lấy ta đi! Ta sẽ cho ăn ngon cả đời!’”
Cả quán rượu rú lên, một thằng té ghế xuống đất mà vẫn còn cười.
“Tao thề là lúc đó tao chưa bao giờ tỉnh táo hơn trong đời! Tao nuốt miếng cháo cuối cùng, chắp tay cúi đầu, rồi nói: ‘Thưa bà, cháu còn mẹ già, không thể ở lại hầu hạ bà được!’”
Tên râu ria đập bàn cái rầm, tiếp tục:
“Thế là bà ta sững lại một chút, rồi vỗ đùi cái bốp: ‘Không sao, ta nuôi luôn mẹ cậu!’”
Quán rượu lần này náo loạn thật sự. Rượu đổ đầy bàn, có thằng ôm bụng cười như sắp đứt hơi.
Gã chủ quán cười chảy cả nước mắt, vừa lau quầy vừa lắc đầu:
“Mẹ nó chứ, tao tưởng mấy thằng tụi bay hảo ngọt, ai dè còn có đứa suýt làm con rể mụ bà tráng trẻo!”
Tên râu ria thở dài, rót thêm ly rượu, uống một hơi cạn sạch, giọng như kẻ đã trải qua đại nạn sinh tử:
“Các ông không biết đâu… Cái cảm giác bị bà chủ quán rượt chạy ba con phố, mà phía sau là tiếng dép quật vào đất chan chát, nó ám ảnh lắm…”
Lại thêm một tràng cười nữa.Trời đã về khuya. Đám bợm rượu vẫn chưa chịu về, người ngả ngớn, kẻ dựa bàn, rượu còn đầy bình nhưng chuyện thì đã vơi đi nhiều. Bỗng một gã lữ hành trẻ tuổi, mặt mày đỏ bừng, lên tiếng:
“Ta thề, không có ai từng rơi vào tình cảnh nhục nhã như ta! Các ông có từng bị lột trần giữa phố chưa?”
Đám đông sững lại một giây, rồi cười rần lên. Một gã râu quai nón đập bàn:
“Bộ chú mày thiếu nợ cờ bạc hả? Hay léng phéng với vợ người ta?”
Gã trẻ tuổi uống thêm ngụm rượu, vung tay:
“Không! Chuyện là vầy… Hôm đó ta tới một thị trấn lạ, bụng đói cồn cào, túi thì chỉ còn đúng một đồng xu. May sao thấy có một quán ăn nhỏ, ta ghé vào, gọi đúng một bát mì. Ăn xong, vừa định đi thì… BỐP! Một bàn tay như búa tạ chụp vai ta!”
Gã giả bộ run rẩy, mắt liếc xung quanh.
“Bà chủ quán – một người đàn bà vạm vỡ, bắp tay còn to hơn đùi ta – hừ một tiếng: ‘Cậu chưa trả tiền!’”
“Thế chú mày làm gì?” Một thằng hói nôn nóng hỏi.
“Ta lúng túng rút đồng xu ra, nhưng bà ta nhìn nó rồi cười khẩy: ‘Bát mì đó hai đồng!’”
Cả quán bật cười. Một tên già khụ gật gù: “Chuyện thường, mấy quán vùng biên hay chém khách lắm.”
Gã trẻ tuổi thở dài:
“Ta không có thêm tiền, nên đành năn nỉ: ‘Bà làm ơn cho ta khất nợ, mai ta sẽ quay lại trả đủ!’”
Mấy gã bợm rượu gật đầu. Nhưng tên trẻ tuổi chưa dừng lại.
“Bà chủ trầm ngâm một hồi, rồi đột nhiên cười… Ta thề, cái nụ cười đó còn đáng sợ hơn lưỡi dao của một sát thủ! Rồi bà ta nói: ‘Không có tiền à? Được thôi, để lại áo choàng đi!’”
Gã hít một hơi, mặt đanh lại:
“Các ông biết không, đó không phải áo choàng bình thường! Đó là áo của cha ta, người đã khuất! Ta không thể để nó rơi vào tay người khác!”
Gã hói cười: “Thế chú mày làm gì? Chạy à?”
Gã trẻ tuổi lắc đầu, mặt đầy bi ai:
“Không… Ta cởi áo choàng, đặt xuống bàn, nghĩ rằng chí ít vẫn còn bộ đồ trên người. NHƯNG KHÔNG! Bà ta nhìn ta một lượt từ đầu tới chân rồi chép miệng: ‘Ta thấy bộ đồ này cũng đẹp đó…’”
Cả quán ồ lên! Một thằng xém sặc rượu.
Gã trẻ tuổi vung tay đầy phẫn nộ:
“Bà ta không cho ta đi nếu không để lại cả áo trong lẫn quần! Và thế là… Ta bị lột sạch giữa thanh thiên bạch nhật!”
Một tràng cười vỡ òa. Có kẻ đập bàn rầm rầm, có kẻ cười đến chảy nước mắt.
Gã lữ hành nghiến răng:
“Các ông không biết đâu! Ta phải chạy trốn qua ba con phố, nấp vào một cái chuồng ngựa, lấy một cái bao tải khoác lên người… Và ngay lúc đó, một cô gái đẹp như tiên bước vào!”
Đám đông nghẹn cười. Một thằng thì thào: “Đừng nói là…”
Gã gật đầu đau khổ:
“Phải! Đó là tiểu thư của một gia đình giàu có! Nàng thấy ta, trợn tròn mắt, rồi đỏ mặt, rồi… cười khúc khích!”
Một trận cười điên loạn nữa vang lên.
“Từ đó, trong vùng có truyền thuyết về một gã lữ hành bị bà chủ quán lột sạch, chạy trốn trong đêm, chỉ khoác một cái bao tải… Để rồi lọt vào mắt xanh tiểu thư danh giá!”
Gã lữ hành rót rượu, uống một hơi, thở dài:
“Ta thề, đó là lần đầu tiên ta mất tất cả… và cũng là lần đầu tiên ta có một lời cầu hôn từ một tiểu thư!”
Cả quán gào lên, người cười sặc sụa, kẻ đập bàn rung cả ván gỗ
Aresene ngả lưng vào quầy, vừa nhấm nháp rượu vừa thả hồn theo những câu chuyện bợm nhậu đầy sắc thái. Cậu từng nghĩ chỉ có Mẫu Đế mới là cái nôi của mấy tay hảo tửu thích bốc phét, hóa ra Đại Doanh cũng không kém cạnh là bao.
Bất chợt gã đàn ông trung niên khoác lên mình một dáng vẻ lơ đãng, nhưng khóe môi luôn vương chút ý cười, như thể đang ngậm sẵn một câu chuyện hay ho mà chỉ đợi đúng lúc mới buông ra. Làn da gã sạm màu, hằn lên những vết thời gian không che giấu, nhưng ánh mắt lại tinh anh, lấp lửng giữa sự từng trải và nét giễu cợt đầy ẩn ý.
Gã khoác một chiếc áo dày đã bạc màu, trên cổ vắt hờ hai lớp khăn – một xám nhạt, một kẻ sọc lam, chẳng rõ là thói quen hay có chủ đích. gã cầm lấy ly rượu mà đi đứng kế bên chổ cậu .Điều này khiến cậu có chút thắc mắc đôi chút nhưng cũng là lơ đãng mà cho qua
Khi trò chuyện, gã hay nghiêng đầu, đôi mắt híp lại, như muốn thấu suốt cả người đối diện lẫn cái chốn đời đầy trò hề này. Cái cách gã cười – chậm rãi, kéo dài, rồi khẽ hừ một tiếng trong cổ họng – khiến người ta chẳng thể phân định là thực tâm hay chỉ đang đùa cợt với chính câu chuyện mình kể.
Dưới ánh đèn mờ của quán rượu, gã không chỉ là một kẻ uống rượu đơn thuần, mà giống như một người quan sát, một kẻ kể chuyện bẩm sinh, hay thậm chí là một gã lãng tử đã quá rành rẽ trò đời nhưng vẫn thích trêu đùa với nó thêm một chút nữa. . Gã không lên tiếng ngay, chỉ nhấc ly lên uống, đôi mắt sáng lên khi nghe đến đoạn cao trào của câu chuyện.
Rồi như không thể kiềm chế, gã bật ra một tràng cười lớn, nghiêng người đập bàn đánh rầm:
“Chuyện hay đấy! Nhưng so với vụ ta từng gặp ở Biện Đô thì vẫn chưa là gì!”
Gã nháy mắt với Aresene, vỗ vai cậu một cái rõ đau như thể vừa tìm được tri kỷ. Cử chỉ của lão có phần lố lăng, nhưng lại chẳng khiến người ta ghét nổi. Có lẽ do sự hóm hỉnh lẫn nét từng trải ẩn sau lớp áo bụi bặm kia.
Aresene nhướng mày, hứng thú hẳn lên:Biện Đô nằm ở vùng cực bắc, gần như ngang vĩ độ với Alaska, nơi mùa đông kéo dài đến 9 tháng với nhiệt độ trung bình -30°C, đôi khi chạm ngưỡng -50°C trong những đợt đại hàn. Lượng tuyết rơi hằng năm lên đến 3–5 mét, và mặt trời chỉ xuất hiện vài giờ mỗi ngày vào mùa đông, thậm chí có những tháng chìm trong bóng tối vĩnh cửu.
Địa hình chủ yếu là núi tuyết và sông băng, với những con sông đóng băng quanh năm và các vách đá dựng đứng cao hơn có thể dao động khoảng 250 – 310 trượng tùy từng thời kỳ . Thực vật hiếm hoi, chủ yếu là rêu và một số loại cây chịu lạnh cực tốt.
“Thế vụ ở Biện Đô thế nào?”
Lão già rót thêm rượu, nhếch mép cười bí hiểm:
“Ôi chao, nghe xong thì cậu sẽ thấy cái gọi là 'số nhọ' chưa bao giờ có giới hạn đâu, nhóc ạ…”
"...... "
" cậu nhìn sang chân trái tôi này ,nhìn vậy thôi vì bỏng lạnh mà tôi phải cắt hai ngón chân ở đó rồi đấy , trường hợp của tôi vẫn còn may đấy chứ có đồng nghiệp của tôi từng công tác làm việc mà đi lạc khởi đoàn dẫn đến việc nửa thân cô ấy bị tê liệt vì phải chịu lạnh lâu dài không lâu sau buồn quá nên cũng qua đời sớm được 2 liên kì "
Nghe xong cậu bị khựng nước trong miệng rồi
" à tôi xin lỗi rồi "
" ổn mà dù gì chuyện cũng qua rồi nhớ tới cũng lãng phí lắm "
Quý ông đứng dậy, phủi phủi tà áo, rồi đĩnh đạc bước tới giữa quán rượu như một kẻ sinh ra để làm trung tâm của mọi cuộc vui. Ông ta rút ra hai tờ 7 saule, vỗ bộp lên bàn trước mặt đám bợm nhậu lắm lời nãy giờ.
"Cứ cầm lấy mà mua đồ nhắm đi nhé, và không phiền để tôi mượn lời một chút được không?"
Hành động ấy khiến cả đám nhất thời lặng đi. Có gã ngẩng lên, mắt láo liên, có kẻ nhếch mép cười khẩy, còn có vài ông cứ gãi gãi đầu như thể đang cố hiểu xem cái quái gì vừa xảy ra. Nhưng tiền là tiền, ai từ chối bao giờ? Bọn họ cười cợt, vẫy tay mời chào, kiểu như: "Rồi rồi, lão cứ nói, xem lão lắm chuyện cỡ nào."
" Nghe các vị ở đây kể chuyện đời qua là khiến tôi cười nút cả ruột lên rồi ,hôm nay thật vinh hạnh quá khi vừa đến một vùng đất thiên liêng của chúa vừa được chiêm trọng thứ tục lễ vàng của Misaklvo Sen này ,để tôi giới thiệu nhé cứ gọi tôi là Ambedor được rồi họ hàng thì cần gì đúng không đây "
' Ambardon à cậu bé "
Đâu đó trong góc một lão nóc rượu lên tiếng rồi có chút cười nhẹ xung quanh đám người Ambedor ,nhưng ông cũng chỉ cười cho qua và chả quan tâm quý ông trong góc đấy muốn nói gì nửa
Ambedor chẳng khách sáo, ưỡn ngực, hắng giọng một cái rồi bắt đầu như một gã hát rong mở màn cho vở kịch cuộc đời.
" Có biết vì sao công tứ các người lại bắt đầu những năm gần đây chiêu mộ vệ binh và gia tăng lực lựng quân đội chốt thử hành chưa ở cái đại doanh này không chỉ có riêng một trường hợp như vậy đâu ? Nội đô ,Ứng thành và rất nhiều trạm thành khác cũng đã bắt đầu chủ trương từ lâu rồi đấy ,có biết vì sao giá vật tư mà mỗi thớ đất các người chăm lại chà nhuận về mấy đồng chưa ,có ai trong đám các vị từng đề ý rằng những chi tiết nhỏ nhất đang xoay chuyển chưa "
" Chưa à hay là các vị không đủ can đảm để nhìn.... "
"Mấy ông có bao giờ nghe về Vonlope chưa? Cái phiên quốc to đùng phía tây ấy, giờ thì còn đâu! Cách đây ba mươi chín năm, bùm một cái, bị xơi tái sạch sẽ. Vì sao à? Vì tài nguyên của nó quá ngon lành, vì bọn đầu to muốn một đống nô lệ phục dịch, thế thôi! Và giờ, đám nô dân đó đang nổi loạn, đòi lại đất đai. Chuyện này dẫn đến đâu? Đến cảnh quan triều đình quý báu của chúng ta phải đi đè bẹp đám loạn dân ấy, và đè bằng tiền thuế của ai? Của tụi mình chứ ai!”
Ông ta vung tay một phát, hất nhẹ cái ly rượu, chất lỏng sóng sánh như vẽ lên cả viễn cảnh hỗn loạn.
"Giờ mấy ông thấy đấy, giá cả leo thang, nhà nào cũng rỗng ruột. Có nhà bữa ăn sáng là củ khoai cứng hơn đá, bữa tối là húp cháo loãng còn trong nồi thì toàn nước. Có kẻ đói quá thì đi ăn cắp, bị bắt thì bị đánh đến gần chết. Có kẻ bán con cho nhà quyền quý, hy vọng nó sống đỡ khổ hơn, nhưng ai biết được chứ? Lỡ mai nó lại thành món đồ chơi của bọn dơ dáy ấy thì sao?”
Có kẻ bật cười, nhưng đó không phải là tiếng cười vui.
Ambedor tợp một ngụm rượu, rồi tiếp tục, như thể chén rượu ấy không chỉ giúp trôi đi cái vị cay xè mà còn bôi trơn cả câu chuyện:
"Còn nhớ gã Lummo không cái thằng mà ươn vai trong làng các vị hay mong muốn đi làm anh hùng đất nước ấy ? Tôi cũng biết gã đi lính mười năm, về lại nhà thấy vợ lấy chồng khác, con cái gọi thằng cha kế là 'cha'. Thế là hắn làm gì? Hắn cười, bước ra khỏi nhà, xách bình rượu đi uống, rồi đến đêm thì thấy hắn treo cổ trên cây mận đầu làng. Cái cây ấy ra trái đỏ lòm suốt năm sau đấy, nghe đâu đám trẻ con đồn là do máu hắn thấm vào rễ."
Gã bợm nhậu bên cạnh nuốt nước bọt đánh ực. Có ông nào đó trong góc quán khẽ hắng giọng, tỏ ý không muốn nghe thêm. Nhưng Ambedor chỉ cười, cái cười của một kẻ đã quá quen với bi kịch và thấy nó cũng chỉ là một phần của bữa nhậu.
" Giá lương thực leo thang.
Có nhà phải bán con, có kẻ bán chồng.
Có làng chết đói, chỉ biết cắm đầu cầu nguyện rồi lại đào thêm mấy mộ đất mà chẳng thấy ai đoái hoài.
Có gia đình, con trẻ chỉ còn biết nhai cám thô qua ngày.
Có kẻ mắc dịch bệnh sốt rét nguyên cả kì trăng thần, chết dần chết mòn khi trăng tròn lại mọc.
Có người vợ góa bụng mang dạ chửa, nuôi con trong khốn cùng, chỉ vì chồng cô ta đã ngã xuống ở chiến trường xa tít, chẳng ai thấy xác, chỉ còn lại một tấm mạc khắc dòng chữ: "Nhân dân anh hùng Đế quốc đã hy sinh."
Bách tính oán thán. Kẻ khóc than, người thì dối trá. "
Ambedor kể, không cần lên gân, không cần rao giảng. Ông chỉ thuật lại, bằng giọng của một kẻ đã chứng kiến quá nhiều, đến mức những bi kịch lớn lao nhất cũng chỉ còn là chuyện bên lề trong chén rượu.
" “Tao là một người lính.”
Giọng ông ta trầm xuống, như thể mỗi từ phát ra đều nặng nề, kéo lê theo một chuỗi hồi ức xám xịt. Ly rượu lắc nhẹ trong tay ông, nhưng không tràn, tựa như kỷ luật quân nhân đã ăn sâu vào từng khớp xương, dù có say cũng không để mất đi chút kiểm soát nào.
“Một người lính của đế quốc.”
Bên ngoài quán rượu, gió rét rít lên từng cơn, như tiếng rú của những người đồng đội đã bỏ mạng giữa cánh đồng tuyết hoang vu. Ambedor dằn ly xuống bàn, đôi mắt nheo lại, tia nhìn xuyên qua những kẻ say xỉn trước mặt, như thể họ không hề tồn tại.
“Tao đã ra đi với lý tưởng, với niềm tin rằng mình sẽ bảo vệ đất nước, sẽ mang vinh quang về cho gia đình. Nhưng khi trở về, tao chỉ còn hai bàn tay trắng và một tâm trí rỗng tuếch.”
“Tao từng tin vào điều đó. Tin vào những bài diễn văn hô hào, vào những lá thư từ hoàng cung hứa hẹn một ngày mai rạng rỡ. Tin vào tiếng kèn đồng thúc giục, vào cái bắt tay siết chặt của đồng đội khi bước lên đoàn tàu chở ra tiền tuyến.”
“Ngày đầu tiên ra trận, tao còn trẻ, đôi mắt vẫn còn ánh sáng. Tao tưởng mình sẽ được thấy những khoảnh khắc vinh quang, nhưng tất cả những gì tao thấy là đồng đội tao gục xuống mà không kịp rên lên một tiếng. Đạn pháo xé nát người nó, tao còn chẳng tìm thấy đầu nó đâu.”
Ông giơ tay lên, như thể đang muốn vẽ lại cảnh tượng ấy trong không khí. Nhưng rồi bàn tay chỉ nắm lại trong vô thức.
“Tao từng đói. Đói đến mức nhìn một con chuột chạy qua mà tao thấy nó như một bữa tiệc.”
Ông bật cười, một tiếng cười khan, đứt quãng.
“Tao từng lạnh. Lạnh đến mức phải ôm xác thằng bạn đã chết ba ngày để giữ ấm. Lạnh đến mức tao tưởng mình đã hóa thành băng, không còn là con người nữa.”
“Và tao từng sợ.”
Lần đầu tiên trong câu chuyện của ông, giọng ông lạc đi một chút.
“Tao sợ cái cách một con người có thể chết dễ dàng như vậy. Một tích tắc trước còn nói cười, một tích tắc sau đã không còn tồn tại.”
Ông nhấp một ngụm rượu, như thể muốn rửa trôi tất cả những gì vừa nói. Nhưng ánh mắt ông vẫn nặng trĩu.
“Vậy sao ông còn sống?” Một giọng nói vang lên, có phần dè dặt.
Ambedor nhếch mép. “Vì tao may mắn.”
Hắn ngửa đầu, mắt trừng lên nhìn những thanh xà gỗ trên trần nhà. “Còn bao nhiêu thằng khác đã vùi thây trong bùn đất, đã để ruồi bâu lên hốc mắt rỗng không, đã tan xác dưới pháo kích.”
Hắn dừng lại một lúc, rồi thì thào như nói với chính mình:
“Chúng nó cũng có lý tưởng. Nhưng lý tưởng không cứu nổi một thằng lính khi hắn đứng trơ trọi giữa chiến trường lạnh lẽo.”
“Lúc đi, là những thằng trai trẻ hừng hực khí thế. Lúc về, chỉ còn là cái xác biết đi.”
Sau một tràng kể nổi tậm không ai lên tiếng. Chỉ có tiếng gió quất vào cửa sổ, cùng với âm thanh lách cách của những quân bài được ném xuống mặt bàn. Những kẻ xung quanh vẫn chưa thật sự tin vào câu chuyện của ông, hoặc có lẽ họ chỉ không muốn tin.
0
0
1 tuần trước
1 tuần trước
BÌNH LUẬN TRUYỆN (0)
